Trong các bài nói và bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ những năm 1920, Người đã nhấn mạnh đặc thù của các nước nhược tiểu châu Á, có thể tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc trước cả cách mạng vô sản ở “chính quốc”.
Cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã thể hiện sức mạnh cả dân tộc vùng dậy dưới sự lãnh đạo của Đảng, chớp thời cơ làm cách mạng giải phóng dân tộc. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 khẳng định sức mạnh Việt Nam và Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 đã hoàn thành sự nghiệp thống nhất non sông.
Cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện khó khăn. Từ các thử nghiệm ban đầu, Đảng ta chính thức phát động Công cuộc đổi mới năm 1986. Quan điểm chỉ đạo “nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật” của Tổng Bí thư Trường Chinh là sự kế thừa trong điều kiện mới của tư tưởng “Tự chỉ trích” (1939); của “Sửa đổi lối làm việc” (1947). Đại hội VI của Đảng (1986) đã tự phê bình và chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm chủ quan, duy ý chí, nóng vội, làm trái quy luật khách quan, để dũng cảm bước vào con đường đổi mới chưa có tiền lệ. Nhìn lại công cuộc đổi mới 35 năm qua, có thể nhận thức rõ là, ngày nay, đất nước ta có được vị thế, cơ đồ, tiềm lực và uy tín quốc tế cao chưa từng có.
Bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhận được sự đón nhận trân trọng. Dưới đây xin nêu một số nhận thức mới về sự sáng tạo con đường phát triển Việt Nam.
Một là, nhận thức mới về lý luận. Chủ nghĩa tư bản sau các cơn khủng hoảng cũng đã có sự điều chỉnh nhất định để thích nghi với cục diện thế giới mới. Tổng Bí thư khẳng định: “chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày nay và cũng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và phát triển sức sản xuất, phát triển khoa học - công nghệ”. Hơn thế, “Nhiều nước tư bản phát triển, trên cơ sở các điều kiện kinh tế cao và do kết quả đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đã có những biện pháp điều chỉnh, hình thành được không ít các chế độ phúc lợi xã hội tiến bộ hơn so với trước”.
Tuy nhiên, “Kinh tế suy thoái đã làm phơi bày sự thật của những bất công xã hội trong các xã hội tư bản chủ nghĩa: đời sống của đa số dân cư lao động bị giảm sút nghiêm trọng, thất nghiệp gia tăng; khoảng cách giàu - nghèo ngày càng lớn, làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn, xung đột giữa các sắc tộc”. Tổng Bí thư nhận định: “Cùng với khủng hoảng kinh tế - tài chính là khủng hoảng năng lượng, lương thực, sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự suy thoái của môi trường sinh thái,... đang đặt ra những thách thức vô cùng lớn cho sự tồn tại và phát triển của nhân loại. Đó là hậu quả của một quá trình phát triển kinh tế - xã hội lấy lợi nhuận làm mục tiêu tối thượng, coi chiếm hữu của cải và tiêu dùng vật chất ngày càng tăng làm thước đo văn minh, lấy lợi ích cá nhân làm trụ cột của xã hội…”.
Tổng Bí thư nêu lên một thực tế rất đáng suy ngẫm rằng: “Thực tế là các thiết chế dân chủ theo công thức “dân chủ tự do” mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên toàn thế giới không hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân - yếu tố bản chất nhất của dân chủ”.
Hai là, con đường phát triển Việt Nam. Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một đề tài lý luận và thực tiễn rất cơ bản, quan trọng. Vậy thì dân tộc ta nên phát triển thế nào? Tổng Bí thư nhấn mạnh: “Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển”. Đây là quan điểm rất mạnh mẽ và sáng tỏ.
Tổng Bí thư nêu rõ: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có. Phải chăng những mong ước tốt đẹp đó chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi”.
Tổng Bí thư khẳng định việc hình thành nhận thức tổng quát: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
Tổng Bí thư nêu rõ: “quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội” và rằng đi lên CNXH “… khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới”.
Trong nghiên cứu và thực hành, nhiều nhà nghiên cứu và cả lãnh đạo thực tiễn còn lúng túng cách hiểu cho đúng về kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tổng Bí thư đã khái quát cao là “… kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Khẳng định con đường Việt Nam mang đặc sắc riêng có, Tổng Bí thư nhấn mạnh: “Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ (vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ)”. Những ý kiến này của Tổng Bí thư cho thấy, đôi khi những nhà nghiên cứu còn chưa hiểu sâu vấn đề quan trọng này.
Về ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối của kinh tế thị trường, Tổng Bí thư viết: “Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”. Và rằng “Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội”.
Nhấn mạnh tương quan kinh tế và xã hội, Tổng Bí thư nhấn mạnh: “Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Điều đó có nghĩa là: không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần”. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tổng Bí thư viết: “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” và nhấn mạnh “Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển”.
Đặc biệt, khi nói về Đảng ta, cần nhấn mạnh Đảng ta là Đảng cầm quyền, đã được trang trọng ghi nhận trong Điều 4 của Hiến pháp năm 2013, được toàn dân thừa nhận là đội tiên phong lãnh đạo của mình và do đó Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam.
Những thành quả theo con đường phát triển mang tên Việt Nam đã được cả thế giới thừa nhận và đánh giá cao, là niềm tự hào chính đáng của mỗi người.
Ba là, không ngừng sáng tạo trong lý luận và thực tiễn. Việt Nam đạt được những thành tựu to lớn như ngày nay và đang sáng tạo con đường phát triển của riêng mình trong thế giới toàn cầu hóa. Điều đó đòi hỏi Việt Nam cần không ngừng sáng tạo trong nghiên cứu lý luận, kế thừa các thành tựu của nhân loại, phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và cục diện mới.
Có lẽ cần nhanh chóng ban hành quy định về coi trọng các ý tưởng mới, tư duy mới, mà ban đầu chỉ có ở một số ít người. Chấp nhận ý kiến khác biệt, nhưng không được chống lại dân tộc và nhân loại, là con đường phát triển lý luận mà Việt Nam chưa có nhiều điểm sáng như tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng cầm quyền, Đảng cần có những quy định minh bạch và cởi mở hơn cho tư duy sáng tạo. Mà “đổi mới sáng tạo” thì rất nhiều ý tưởng “mới” phải được điều chỉnh do thất bại trong thực tiễn.
Đồng thời, chính sự nghiệp cách mạng của quần chúng nhân dân, của nhân loại là thực tiễn rộng lớn cần được không ngừng tổng kết, nhân rộng, để đưa cuộc sống sinh động vào dự thảo các văn kiện Đảng và từ nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống thành công. Lý luận và thực tiễn gắn kết sẽ là chìa khóa của thành công.
GS, TSKH NGUYỄN QUANG THÁI
Chủ tịch Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam